Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch Sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch Sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 17 tháng 5, 2012

Thành Cổ Loa


   Đền Cổ Loa       Khảo cổ học đã tìm thấy những dấu vết của người Hà Nội cổ qua những viên đá cuội ở xã Cổ Loa có niên đại từ 2 vạn đến hơn 1 vạn năm thuộc giai đoạn văn hoá Sơn Vi. Trải qua những kiến tạo tự nhiên của vỏ trái đất, vùng Hà Nội cổ đã từng là vùng ngập nước, có rừng xen kẽ những dải đất cao (khoảng từ 1vạn đến 6-7 nghìn năm cách ngày nay).
Song ngay từ thời kỳ đó đã có sự tồn tại của nhiều nhóm người cổ sinh sống. Các cuộc khai quật khảo cổ học đã cho thấy nhiều lớp văn hoá nối tiếp nhau, hình thành một chuỗi dây lịch sử liên tục từ đầu Thời đại đồng đến đầu Thời đại sắt trên chặng đường 20 thế kỷ trước công nguyên.

null
 
       Người Hà Nội ngày ấy sinh sống chủ yếu bằng trồng trọt, chăn nuôi, săn bắn và chài lưới đánh cá. Tại các di chỉ khảo cổ đã tìm thấy nhiều rìu, lưỡi cày, liềm bằng đồng, hạt na, hạt trám, hạt gạo cháy và vỏ trấu, hòn chì lưới bằng đá và đất nung. Đặc biệt là số lượng mũi tên đồng được tìm thấy khá nhiều. Đây là các hiện vật thuộc thời đại Hùng Vương với sự hình thành của nhà nước đầu tiên trên đất nước ta: Nhà nước Văn Lang.  

null
Mũi tên đồng
       Khoảng năm 218 trước công nguyên, Tần Thuỷ Hoàng phái 50 vạn quân tiến đánh miền Bách Việt. Đây cũng chính là thời điểm diễn ra sự hợp nhất giữa hai tộc người Tây Âu của Thục Phán và Lạc Việt của Hùng Vương để làm thành một khối thống nhất. Sau khi quân Tần rút, Thục Phán lên ngôi vua lấy hiệu An Dương Vương, đặt quốc hiệu Âu Lạc, định đô tại Cổ Loa xây toà thành ốc. Hà Nội với toà thành đó bắt đầu đi vào lịch sử với tư cách một trung tâm chính trị, xã hội đầu tiên của đất nước. 
 

null
Thủy đình Đền Gióng
     Thành Cổ Loa được xây dựng trên mảnh đất Chạ Chủ - một làng quê thời Hùng - trở thành đế đô nhà Thục. Với mục đích dựng thành một chiến luỹ bất khả chiến bại, thành được xây dựng hết sức công phu với hệ thống thành, hào, luỹ xen kẽ, làm thành một loa thành khổng lồ hình xoáy trôn ốc soi bóng xuống dòng Hoàng Giang. Thành đắp dựa vào hình sông thế núi, uốn lượn theo địa hình tự nhiên, ngoài hào trong luỹ, hào lại nối với sông và đầm cả mênh mông, quanh năm đầy ắp nước, tạo cho Cổ Loa vừa là căn cứ phòng ngự vừa là căn cứ tiến công, vừa tác chiến trên bộ vừa tiến công dưới thuỷ. Với kết cấu thành - hào - luỹ, thành Cổ Loa được xây dựng thành ba vòng: Thành ngoại, Thành giữa, Thành nội. Các cửa bố trí chéo nhau, đường nối hai cửa làm thành hình chéo, đi lại quanh co, lại có ụ phòng ngự hai bên, dệt nên huyền tích thành ốc - Loa Thành. Đây chính là thành quả lao động và sức sáng tạo kỳ diệu của quân dân Âu Lạc.  

null
Rồng đá Cổ Loa
      Cùng với kỹ thuật chế tác và sử dụng cung nỏ đã được nâng lên thành nghệ thuật quân sự, thành Cổ Loa đã nhiều lần kiêu hùng chứng kiến thất bại thảm hại của quân xâm lược phương Bắc. Chính những thắng lợi huy hoàng ấy đã dệt nên huyền thoại lẫy Nỏ thần. Sử chép Triệu Đà đã nhiều lần cất quân xâm lược nước Âu Lạc nhưng đều thất bại liền thay đổi phương sách xâm lược bằng cách xin giảng hoà và cầu hôn con gái vua Thục là công chúa Mỵ Châu cho con trai mình là Trọng Thuỷ.
        Cuộc hôn nhân chính trị này dẫn đến hậu quả không đầy ba năm, nỏ thần - biểu tượng của những bí mật quốc gia bị mất cắp, vua xa dân, tai không muốn nghe lời nói phải. Con gái vua nhẹ dạ tin người, vì thế cơ đồ Âu Lạc chìm đắm biển sâu. Từ toà thành kỳ diệu, Cổ Loa lại chứa đựng cả một bi kịch: bi kịch gia đình, bi kịch tình yêu, và hơn hết thảy: bi kịch mất nước! Quốc gia Âu Lạc rơi vào tay Triệu Đà, mở đầu thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc lần thứ nhất trong lịch sử nước ta.
null
Bản đồ khu Cổ Loa
      Lên ngôi từ năm 208 đến năm 179 trước công nguyên, Thục Phán bị Triệu Đà dùng mưu gian đánh bại. Từ đó, nước Âu Lạc bị sa vào ách thống trị của các triều đại phong kiến phương Bắc và bị chia thành 3 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Hà Nội thuộc quận Giao Chỉ, về sau là trung tâm huyện Tống Bình (khoảng 454 - 456). Huyện Tống Bình sau đổi thành quận, quận Tống Bình gồm 3 huyện: Nghĩa Hoài, Từ Ninh (Từ Liêm, Hoài Đức ngày nay) và Xương Quốc (Đông Anh, Gia Lâm ngày nay). Quận trị chính là vùng nội thành ngày nay.
Từ Cổ Loa đến Thăng Long
Từ Cổ Loa đến Thăng Long               
Di tích Cổ Loa
Kể từ thời Thục Phán An Dương Vương đến thời Lý, dân tộc ta đã trải qua hơn một ngàn năm binh lửa anh dũng chống phong kiến phương Bắc và đã không ít lần giành lại quyền độc lập tự chủ: đó là giai đoạn của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Nam Đế, họ Khúc, họ Ngô... Trong suốt thời gian đó đã hơn một lần vùng đất Hà Nội cổ trở thành thủ phủ của chính quyền trung ương: Năm 545 Lý Bý khởi nghĩa, dựng thành ở cửa sông Tô đánh đuổi quân đô hộ nhà Lương, xưng Đế, đặt quốc hiệu Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên ( vị trí thị xã Bắc Ninh ngày nay). Hiện nay tại làng Vĩnh Tuy thuộc huyện Thanh Trì- Hà Nội còn một khu đầm có tên là đầm Vạn Xoan (do đọc chệch từ Vạn Xuân), rất có thể đây là nơi Lý Nam Đế thiết lập bộ chỉ huy quân sự của nhà nước Vạn Xuân. Một tấm bia tìm thấy năm 1962 tại đầm Vạn Xoan có niên hiệu nhà Lương tức là tương đương với thời tiền Lý.  
 
null
Di vật cổ
       Sau công cuộc hưng binh khởi nghĩa dựng đô của Lý Nam Đế thất bại đất nước ta nói chung và quận trị Tống bình (Hà Nội cổ) nói riêng lại lệ thuộc phong kiến phương Bắc và trở thành phủ trị đô hộ của chúng: Năm 621 một thành được dựng lên ở đây gọi là Tử Thành với chu vi 900bộ; Năm 767 dưới thời nhà Đường, thành được mở rộng để phục vụ cho mục đích quân sự gồm 10 dinh, chia làm hai bên tả hữu, xung quanh có tường thành bao bọc gọi là La Thành. Năm 808 để đối phó với các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta viên đô hộ sứ Trương Chu cho sửa đắp lại La Thành to lớn hơn gọi là Đại La Thành. Năm 866 Cao Biền cho xây lại thành và đắp thêm Đại La Thành. Từ đó Tống Bình được gọi với cái tên thành Đại La. Tuy nhiên đó chỉ là thành luỹ có tính chất quân sự để bảo vệ cơ quan hành chính của bọn xâm lược chứ chưa phải là thành thị với đầy đủ mọi mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá của mọi tầng lớp trong xã hội.
      Năm 938, Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, năm 939 ông lên ngôi, Cổ Loa lại một lần nữa được chọn làm kinh đô của một nước độc lập.
      Tất cả những yếu tố trên đã làm thành những tiền đề nhất định, mở đường cho miền Hà Nội trở thành vị trí quan trọng bậc nhất về mọi mặt trong các thời đại về sau. 
 

HỘI ĐỀN AN DƯƠNG VƯƠNG


Đền thờ An Dương Vương toạ lạc trên mảnh đất thuộc làng Cổ Loa, huyện Đông Anh Hà Nội, cách trung tâm thủ đô khoảng 17 km nằm trên quốc lộ Hà Nội đi Phúc Yên. 
Đền nằm trong vị trí khu Thành Cổ, bao gồm một cụm các di tích: Đình Ngự Triều Di Quy, tương truyền đây là nơi ngự triều của vua Thục; Am Bà Chúa - nơi thờ công chúa Mỵ Châu, con gái vua Thục. Trong am vẫn còn pho tượng đá cụt đầu, dấu tích của nỗi lòng oan khiên hận tình nợ nước của nàng công chúa vì nhẹ dạ mà mắc mưu kẻ địch để nỗi nước mất nhà tan.

ImageTừ Am Bà Chúa sang thăm đền Thượng, còn gọi là Đền Vua Chủ. Đây chính là nơi thờ An Dương Vương. Trong đền có thờ đôi ngựa Hồng và trống đồng vua Thục. Trước đền có giếng Ngọc, nơi Trọng Thuỷ tự tử vì hối hận. Trong cụm di tích này còn có một miếu nhỏ thờ thần Kim Quy. 
Hội đền Cổ Loa cử hành hằng năm vào ngày mồng 6 tháng Giêng và kéo dài trong khoảng 10 ngày. Trong ngày lễ hội có sự tham dự của dân 12 xóm trong vùng Cổ Loa. Lễ hội mở đầu bằng đám rước Văn Chỉ và kiệu Thành hoàng các xóm sáng mồng 6 tháng Giêng sang đền thờ Vua chủ. Đền Thượng sẽ là nơi cử hành tế lễ, sân đền có cắm cờ ngũ sắc và bày các khí tự: đôi ngựa hồng, ngựa bạch hai bên tả hữu, chính giữa là hương án có bày đồ lễ, hộp kính đựng hia vàng và các đồ ngũ sự cùng với các khí giới của nhà vua.

ImageTuy nhiên tượng nhà vua và chiếc mũ bình thiên vẫn để trong gian thờ. Khi đám rước tới, các tiên chỉ sẽ sắp xếp theo chánh hội tế và cử hành nghi thức tế cổ truyền. Lễ tế thường kéo dài từ lúc quá Ngọ sang Mùi mới xong (12 giờ - 1 giờ). Sau khi đội tế của làng Cổ Loa tế xong lần lượt sẽ đến các đội tế khác (nếu có). Cuối cùng là dân làng và du khách vào lễ cầu nguyện nhà vua phù hộ cho thịnh vượng bình yên.

ImageSau buổi tế, dân làng tổ chức rước kiệu thần của 12 xóm và kiệu long đình của nhà vua cùng cung tên, kiếm nỏ, phường bát âm, cờ quạt đi một vòng quanh giếng Trọng Thuỷ về đình Ngự Triều (tới cửa điếm làng Cổ Loa thì kiệu làng nào về làng ấy, chỉ có kiệu làng Cổ Loa được rước về đình Ngự Triều). Đám rước xong cũng là lúc dân làng tham dự hội với những trò vui cổ truyền: đánh đu, đáo, đĩa, các cụ thì chơi tổ tôm, cờ bỏi... Hội cứ thế kéo dài cho tới 16 tháng Giêng mới làm lễ tạ trời đất và đóng đám.

Kinh Dương Vương


Tổ thứ nhất của dân tộc Việt Nam, họ Hồng Bàng dựng nước. Tất cả truyền được 18 đời xưng họ Hùng Vương (theo Hùng triều ngọc phả và Thiên Nam bảo lục diễn ca).
Ngài là đời thứ nhất gọi là Kinh Dương Vương Lộc Tục, tôn dâng miếu là Hùng Vương, thứ hai là Lạc Long Quân Sùng Lãm, thứ ba là Hùng Lân
Quốc hiệu ta lúc ấy là Văn Lang đóng đô ở Phong Châu (thuộc huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Phú ngày nay). Ông làm vua nước Xích Quỉ vào khoảng năm Nhâm Tuất (2879 tr. Tây lịch) lấy con gái Động Đinh quan là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua. Toàn lãnh thổ chia ra 15 bộ: Văn Lang, Phúc Lộc, Tân Hưng, Võ Định, Võ Ninh, Lục Khái, Ninh Hải, Dương Tuyền, Giao Chỉ, Cửu Chân, Hoài Nam, Cửu Đức, Việt Thường và Binh Văn. Và truyền nhau đến đời thứ 18 là Hùng Duệ.
Đến nay di tích hãy còn trên đỉnh Hùng Sơn (Núi Hùng) cách Hà Nội 97km, cũng gọi là Núi Đền, Nghĩa Lĩnh, hay Nghĩa Cương. Bia 4 chữ lớn Cao Sơn cảnh Hùng. /

Việt Nam xây dựng lại đất nước (1975-1986)


I. Khắc phục hậu quả chiến tranh, hoàn thành thống nhất đất nước (1975 1976) 
 1 Tinh hình đất nước sau Đại thắng mùa Xuân 1975 
Với Đại thắng mùa Xuân 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của  nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi. Đây lâ một trong những chiến thắng lịch sử oanh liệt nhất, lẫy lừng nhất của dân tộc Việt Nam. Chúng ta đã đánh bại đế quốc Mỹ - một đế quốc có thế lực kinh tế, quân sự hùng mạnh vào bậc nhất thế giới. Một kỷ nguyên phát triển rực rỡ của cách mạng Việt Nam đã được mở ra: Kỷ nguyên cả nước độc lập, thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). 
Tuy nhiên, công cuộc xây dựng CNXH là một nhiệm vụ hết sức khó khăn lại phải tiến hành trong điều kiện đất nước vừa trải qua những năm tháng chiến tranh liên miên nên càng nặng nề và gian nan hơn.
  ImageNhân dân miền Bắc vừa xây dựng CNXH vừa làm nhiệm vụ của hậu phương lớn vừa phải trực tiếp chống lại hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ nên"quá trình tiến lên sản xuất lớn bị chậm lại vài ba kế hoạch 5 năm"(1). Vì thế, kinh tế miền Bắc chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, cơ chế quản lý vốn nặng về tập trung quan liêu bao cấp, lại bị chi phối thêm bởi quy luật chiến tranh nên càng bị méo mó, phi kinh tế. Sau năm 1975, chiến tranh kết thúc, cơ chế quản lý kinh tế bộc lộ rõ hơn những bất cập của nó. Quan hệ sản xuất có dấu hiệu của sự khủng hoảng. Do vậy, việc chấn chỉnh lại cơ chế quản lý kinh tế cho phù hợp với quy luật vận động là một vấn đề hết sức khó khăn.Về mặt xã hội, chiến tranh đã làm xáo trộn và gây tổn thất lớn cho lực lượng lao động, để lại hậu quả rất nặng nề và kéo dài.
Đối với miền Nam, do chính sách thực dân kiểu mới, yếu tố tư bản chủ nghĩa (TBCN) đã xâm nhập mạnh vào các ngành công nghiệp, thương nghiệp, tài chính ngân hàng...và bước đầu trong nông nghiệp. Trong chừng mực nhất định, kinh tế ở các vùng bị tạm chiếm đã phát triển theo hướng TBCN. 
Tuy nhiên, kinh tế miền Nam chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, cơ cấu mất cân đối và lệ thuộc nặng nề vào viện trợ bên ngoài. Vì vậy, khi Mỹ rút quân, cắt giảm viện trợ, nền kinh tế miền Nam lập tức rơi vào khủng hoảng. Nhiệm vụ khôi phục và phát triển một nền kinh tế vốn mang tính lệ thuộc cao như vậy trở nên hết sức khó khăn. Đó là chưa kể đến khó khăn ở những vùng bị tàn phá bởi chiến tranh, bị hủy diệt bởi chất độc hóa học. Sau giải phóng, miền Nam còn có sự phức tạp về mặt xã hội.Chiến tranh và quá trình cưỡng bức đô thị hóa của Mỹ đã gây xáo trộn trong phân bố lực lượng lao động. Nông thôn nông nghiệp thiếu lao động. Các vùng đô thị, mật độ dân số quá đông, không tương xứng với sự phát triển về kinh tế.
 Sau chiến tranh, quần chúng nhân dân rất phấn khởi, nhanh chóng bắt tay vào xây dựng chế độ mới, nhưng cũng còn một bộ phận, nhất là những người đã từng tham gia trong bộ máy quân sự và chính trị của chính quyền Sài Gòn tỏ ra lo ngại, thậm chí có người lợi dụng Nhà nước gặp khó khăn để kích động, lôi kéo quần chúng, móc nối với các thế lực phản động bên ngoài, gây rối loạn trong nước.
Những di hại do chế độ thực dân mới của Mỹ để lại cũng rất nặng nề như tệ nạn ma túy, lưu manh, bụi đời, mại dâm... ; số người thất nghiệp, đặc biệt là số người mù chữ chiếm tỷ lệ lớn trong dân cư.
. Tóm lại, tình hình đất nước sau Đại thắng mùa Xuân 1975 có nhiều thuận lợi đồng thời cũng có rất nhiều khó khăn, phức tạp mà chúng ta chúng ta chưa lường được hết
2. Nhanh chóng ổn định tình hình các vùng mới giải phóng, bước đầu khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành khôi phục kinh tế.
 Để sớm ổn định tình hình các vùng mới giải phóng, chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng nhanh chóng được thành lập. Chính quyền cách mạng đã chỉ đạo các cơ sở tiếp quản những vùng mới giải phóng. Do triển khai kịp thời và chủ động nên công việc tiếp quản diễn ra nhanh gọn, có kết quả. Chúng ta đã tiếp nhận gần như nguyên vẹn các căn cứ quân sự, các cơ sở sản xuất, hành chính, văn hóa, góp phần tạo cơ sở vật chất ban đầu để nhanh chóng khôi phục kinh tế.
 Về mặt xã hội, chính quyền cách mạng đã có chính sách đúng đắn đối với những người đã từng tham gia trong bộ máy chính quyền, quân đội của chế độ cũ để họ yên tâm tham gia xây dựng cuộc sống mới; kiên quyết trừng trị những phần tử chống đối, những chủ tư sản đầu cơ tích trữ lũng đoạn thị trường gây tác động xấu đến sản xuất và đời sống của nhân dân; tạo điều kiện cho những đồng bào bị gom trong các ấp chiến lược hay phải di tản vào thành phố trong thời kỳ chiến tranh được trở về quê cũ làm ăn; thu xếp việc làm cho hàng chục vạn người thất nghiệp, tổ chức cho dân đi xây dựng vùng kinh tế mới nhằm phân bố lại lực lượng lao động. Nhờ vậy, vấn đề an ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững, mọi sinh hoạt của nhân dân nhanh chóng trở lại bình thường.
 Về kinh tế, chính quyền cách mạng đã có những biện pháp khuyến khích sản xuất phát triển. Những cơ sở sản xuất của các phần tử phản động, tư sản mại bản, những người chạy trốn ra nước ngoài đã được chuyển sang khu vực quản lý của Nhà nước. Sau một thời gian ngắn, các cơ sở sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp của Nhà nước và của cả tư nhân đều được tạo điều kiện thuận lợi để trở lại hoạt động. Những khó khăn về nguyên liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế được khắc phục dần. Năm 1976, gần 400 xí nghiệp lớn nhỏ ở Sài Gòn đã trở lại hoạt động(2) .
Chính quyền cách mạng cũng rất chú ý đến việc khôi phục sản xuất nông nghiệp. Chính quyền đã tịch thu ruộng đất của các phần tử phản động, đem chia cho nông dân, vận động nông dân vào các tổ đổi công, giúp đỡ nông dân tích cực tháo gỡ bom mìn, khuyến khích khai hoang, phục hóa, làm thủy lợi. Vì thế, nông nghiệp nhanh chóng được khôi phục và bước đầu đã có sự phát triển, đáp ứng nhu cầu về lương thực cho nhân dân. 
Đặc biệt, các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội được tiến hành rất khẩn trương. Đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, báo chí được kịp thời sử dụng vào công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động. Những hoạt động văn hóa lành mạnh được đẩy mạnh ở khắp mọi nơi, đồng thời với việc nghiêm cấm những hoạt động văn hóa phản động, đồi trụy, bài trừ những tệ nạn xã hội cũ như mê tín dị đoan, mại dâm, ma túy... Cuộc sống văn hoá mới dần dần được xây dựng. Hệ thống các trường học lần lượt được mở lại.Việc xóa nạn mù chữ được chú trọng. Các địa phương đều phát động phong trào bình dân học vụ, mở các lớp bổ túc văn hóa ở khắp nơi. Ngành y tế được xây dựng và đẩy mạnh hoạt động. Nhiều đội y tế lưu động được phái xuống các thôn, xã tổ chức tiêm phòng, khám chữa bệnh cho nhân dân, kịp thời dập tắt những ổ dịch. Công tác vệ sinh phòng bệnh, hoạt động thể dục, thể thao cũng được chú ý phát động thành phong trào quần chúng.
Những hoạt động nêu trên của chính quyền cách mạng trong năm đầu tiên sau giải phóng đã đem lại lòng tin cho nhân dân, nhất là ở những vùng mới giải phóng. Kết quả hoạt động của chính quyền về các mặt tuy còn rất hạn chế nhưng có tác dụng to lớn trong việc sớm ổn định tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhân dân, nhất là đồng bào ở vùng mới giải phóng yên tâm, tin tưởng vào chế độ mới. Sự ổn định của xã hội, lòng tin của dân chúng chính là điều kiện căn bản để chúng ta tiến hành công cuộc xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước. 
Ở miền Bắc, tuy chiến tranh đã chấm dứt từ sau Hiệp định Pari nhưng do sự tàn phá nặng nề của hai lần chiến tranh phá hoại nên trong năm 1975, nhân dân miền Bắc vẫn phải tiếp tục khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế. Cho đến hết năm 1975, nhiệm vụ khôi phục kinh tế mới căn bản hoàn thành. Hầu hết các cơ sở công nghiệp bị chiến tranh tàn phá đã được khôi phục (trừ một số ít còn kết hợp khôi phục với mở rộng). So với năm 1965. giá trị sản lượng công nghiệp năm 1975 đạt 173,3%. Giá trị sản lượng nông nghiệp đạt 111,4%. 
Đương nhiên, hậu quả của những năm thắng chiến tranh liên miên còn rất nặng nề về cả kinh tế lẫn xã hội. Nhân dân hai miền còn phải tiếp tục khắc phục trong nhiều năm sau. 
3. Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước
 Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất về mặt lãnh thổ nhưng ở mỗi miền lại tồn tại một hình thức tổ chức nhà nước khác nhau. Trong khi đó, ý nguyện của dân không chỉ là sự thống nhất về lãnh thổ mà là sự thống nhất trọn vẹn trên tất cả các mặt. Mặt khác, công cuộc xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước chỉ có thể được tiến hành có hiệu quả khi đất nước đã thống nhất về mặt Nhà nước. Đây sẽ là cơ sở pháp lý để chúng ta thống nhất về các mặt kinh tế - xã hội, là công cụ đắc lực để tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng CNXH trên cả hai miền.
 Để chuẩn bị cho công việc trọng đại đó, từ tháng 2 - 1976, công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tiến tới cuộc Tổng tuyển cử được triển khai ở tất cả các địa phương. 
Ngày 25 - 4 - 1976, nhân dân khắp hai miền Bắc - Nam nô nức tham gia Tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Đây là lần thứ hai cuộc Tổng tuyển cử được tổ chức trên phạm vi cả nước, sau lần đầu tổ chức từ ngày 6 - 1 - 1946. Hơn 23 triệu cử tri (98,8% tổng số cử tri) đi bầu và đã bầu ra 492 đại biểu. Kết quả của Tổng tuyển cử là một thắng lợi có ý nghĩa quyết định trên con đường tiến tới hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. 
Ngày 24 - 6 - 1976, Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất, được gọi là Quốc hội khóa VI với ý nghĩa kế tục sự nghiệp của 5 khóa Quốc hội trước, họp kỳ đầu tiên tại Hà Nội. 
Quốc hội quyết định đặt tên nước Việt Nam thống nhất là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,thông qua chính sách đối nội, đối ngoại, bầu cử các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của Nhà nước, quy định các nguyên tắc xây dựng bộ máy chính quyền các cấp, quy định quốc kỳ, quốc ca, bầu ủy ban dự thảo Hiến pháp. 
Với kết quả của kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI, công việc thống nhất đất nước về mặt Nhà nước đã hoàn thành, đáp ứng nguyện vọng của quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu tất yếu khách quan của sự phát triễn cách mạng Việt Nam, tạo nên những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện của đất nước, tập trung cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất, mở ra khả năng to lớn để phát triển quan hệ với các nước trên thế giới. 
Những thành quả bước đầu trong sự nghiệp thống nhất đất nước năm đầu tiên sau hòa bình đã cho phép hai miền cùng bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm trên phạm vi cả nước.
 II.  Bước đầu xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc (1976 - 1985) 
1.      Tập trung sức mạnh của cả nước, thực hiện kế hoạch 5 năm 1976 - 1980   
Trên cơ sở xác định đường lối chung, đường lối xây dựng kinh tế, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã quyết định phương hướng, nặng nề của chiến tranh vừa phải tổ chức lại nền kinh tế, xây dựng một bước nền sản xuất lớn XHCN, đặt nền móng cho sự nghiệp công nghiệp hóa nước nhà. Kế hoạch 5 năm đầu tiên sau khi đất nước thống nhất nhằm hại mục tiêu cơ bản và cấp bách : xây dựng một bước cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, hình thành bước đầu cơ cấu kinh tế mới trong cả nước và cải thiện một bước đời sống của nhân dân lao động. 
Nhằm thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, trong kế hoạch 5 năm 1976 – 1980, chúng ta đã tiến hành củng cố quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc, cải tạo XHCN ở miền Nam, thống nhất nền kinh tế theo mô hình chung trên phạm vi cả nước.
Ở miền Bắc, nhiều cơ sở kinh tế quốc doanh được khôi phục, mở rộng. Một số cơ sở được xây dựng thêm. Phong trào hợp tác hóa (HTH) nông nghiệp càng trở nên sôi động. Mô hình HTH - tập thể hóa được đẩy tới mức cao nhất.
Ở miền Nam, do chính sách thực dân mới của Mỹ, nền kinh tế ở các vùng tạm chiếm bước đầu phát triển theo hướng TBCN. Vì vậy, sau năm 1975, chúng ta phải tiến hành cải tạo XHCN nhằm thống nhất nền kinh tế theo mô hình chung trong cả nước. Đối tượng của công cuộc cải tạo XHCN vẫn nhằm vào kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể. 
Trong công nghiệp, Nhà nước đã quốc hữu hóa và chuyển thành quốc doanh tất cả các xí nghiệp công quản, các xí nghiệp của tư sản mại bản và tư sản bỏ chạy ra nước ngoài. Năm 1976, tư sản mại bản và tư sản lớn đã bị xóa bỏ. Đối với tư sản loại vừa và loại nhỏ, Đảng và Nhà nước chủ trương cải tạo bằng con đường thành lập các xí nghiệp công tư hợp doanh. Tiểu chủ được đưa vào các HTX tiểu thủ công nghiệp.
 Trong thương nghiệp, Đảng và Nhà nước chủ trương phải xóa bỏ ngay thương nghiệp tư bản tư doanh, chuyển đại bộ phận tiểu thương sang sản xuất. Đầu năm 1978, một chiến dịch tiến công vào tư sản thương nghiệp được triển khai. Hàng nghìn cơ sở kinh doanh của tư sản thương nghiệp được chuyển giao cho thương nghiệp quốc doanh quản lý và sử dụng. Cuối năm 1978 có khoảng 9 vạn người buôn bán nhỏ được chuyển sang sản xuất và 15.000 người được sử dụng trong ngành thương nghiệp XHCN(3). Đồng thời với quá trình cải tạo XHCN đối với thương nghiệp, hệ thống mậu dịch quốc doanh và HTX mua bán được hình thành và dần dần chiếm lĩnh thị trường.
 Đến giữa năm 1979, chúng ta đã căn bản hoàn thành việc chuyển các cơ sở tư bản tư doanh trong các ngành công nghiệp, thương nghiệp, vận tải, xây dựng và dịch vụ quan trọng thành các xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh. 
Trong nông nghiệp, từ cuối năm 1978 đến cuối năm 1980, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp được đẩy mạnh ở các tỉnh phía nam Tính đến tháng 7 – 1980, toàn miền đã xây dựng được 1.518 HTX, 9.350 tập đoàn sản xuất, thu hút 35,6 % tổng số hộ nông dân vào con đường làm ăn tập thể (4)
Qua cải tạo, thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể đang phát triển trong thể chế kinh tế cũ bị hạn chế, thủ tiêu. Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể ngày càng được mở rộng trở thành hai thành phần kinh tế chủ yếu. Nền kinh tế miền Nam bước đầu phát triển theo mô hình kinh tế của miền Bắc cũng như của cả phe XHCN nói chung.
Đồng thời với nhiệm vụ cũng cố quan hệ sản xuất ở miền Bắc, cải tạo XHCN ở miền Nam, nhà nước đã tăng cường đầu tư và tích cực phát triển lực lượng sản xuất.
Trong kế hoạch 5 năm 1976-7980, Nhà nước đã dùng 1/3 ngân sách để đầu tư xây dựng cơ bản (theo giá so sánh năm 1982), xấp xỉ tổng 1 mức đầu tư xây dựng cơ bản của miền Bắc 21 năm trước đây. Do đó, cơ sở vật  chất kỹ thuật của nền kình tế quốc dân tăng lên đáng kể. Riêng ngành công nghiệp đã có thêm 714 xí nghiệp quốc doanh, trong đó 415 xí nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nặng. Nhờ vậy, công suất của nhiều ngành công nghiệp tăng lên rõ rệt.
 Ngành nông nghiệp đã phục hoá được 50 vạn héc ta ruộng đất bị bỏ hoang  trong thời kỳ chiến tranh, khai hoang 70 vạn ha, diện tích  tiêu tăng 86 vạn ha, diện tích trồng cây hàng năm tăng 2 triệu ha, diện tích trồng rừng tăng 58 vạn ha. Ngoài ra, nông nghiệp còn được trang bị thêm 18 nghìn chiếc máy kéo,đưa diện tích cày bừa bằng máy đạt 25% tổng diện tích gieo trồng. 
 Ngành giao thông vận tải đã khôi phục và xây dựng mới tuyến đư­ờng sắt Bắc- Nam với chiều dài hơn 1.700 km, làm thêm 3.800 km đường ô tô, xây dựng lại những cầu đường bộ bị chiến tranh tàn phá và xây dựng mới một số cầu  đường bộ khác với chiều dài tổng cộng 30.000 mét(5).
Trong kế hoạch 5 năm (1976 - 1980), văn hoá, giáo dục, y tế có  những thành tựu rất quan trọng, đặc biệt là các tỉnh miền Nam. 
Để thực hiện mục tiêu cải thiện đời sống văn hoá của nhân dân, Nhà nước đã tăng cường đầu tư cho lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế. Hệ thống trường học, bệnh viện, các cơ sở văn hoá tiếp tục được tu bổ, xây dựng. Ở các tỉnh miền Nam, việc xây dựng hệ thống trường học từ cấp cơ sở, nhất là ở các vùng nông thôn được đặc biệt quan tâm cùng với việc tiếp tục bổ sung đội ngũ giáo viên,  thống nhất chương trình đào tạo. 
Tháng 1-1979, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 14 về cải cách giáo dục nhằm xây dựng và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất trong cả nước. Nội dung cải cách giáo dục được thực hiện chủ yếu trong các kế hoạch sau.
 Năm học 1979 - 1980, năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm, cả nước có gần 1,5 triệu học sinh mẫu giáo, 11,7 triệu học sinh phổ thông các cấp, trên 13 vạn học sinh trung học chuyên nghiệp, 15 vạn sinh viên đại học. Như vậy, số người đi học trong cả nước vào năm học 1979 - 1980 xấp xỉ bằng 1/3 số dân, tăng hơn năm học 1976 - 1977 là 2 triệu người(6). Phong trào bình dân học vụ tiếp tục phát triển ở những vùng mới giải phóng của miền Nam, thu hút được nhiều người tham gia. Tỷ lệ người mù chữ giảm dần. 
Mạng lưới các bệnh viện, phòng khám bệnh, trạm y tế, nhà hộ sinh, cơ sở điều dưỡng được mở rộng. Tình hình y tế được cải thiện rõ rệt ở những vùng mới giải phóng. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao có nhiều tiến bộ, trở thành phong trào quần chúng trong các địa phương, xí nghiệp, trường học.
 Kết thúc kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, chúng ta đã đạt được một số thành tựu quan trọng như thống nhất đất nước về mặt nhà nước, thiết lập hệ thống chính trị mới trong cả nước. Trên cơ sở đó, chúng ta đã thực hiện một loạt các chính sách khác nhằm tiến tới thống nhất nước nhà về mọi mặt. Nhân dân ta đã anh dũng chiến đấu chống lại hai cuộc chiến tranh quy mô lớn Ở biên giới phía tây nam và phía bắc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế với nhân dân Campuchia và nhân dân Lào. Trên mặt trận kinh tế, nhân dân ta đã nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, ổn định sản xuất và đời sống. Chúng ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng về phát triển sự nghiệp giáo dục trong cả nước.
 Tuy nhiên, những thành tựu về kinh tế còn thấp so với yêu cầu đề ra trong kế hoạch, thậm chí có những điểm không phù hợp, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. 
Kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, chúng ta đã nỗ lực tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất. Kết thúc kế hoạch, quan hệ sản xuất XHCN với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và hai thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh và tập thể đã được đẩy tới mức cao nhất ở các tỉnh phía Bắc, đồng thời được xác lập ở các tỉnh phía Nam. Về hình thức, công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất đã thành công. Tuy nhiên, nếu xét dưới góc độ quan hệ sản xuất có phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hay không, có đem lại hiệu quả kinh tế hay không, thì vấn đề lại hoàn toàn khác. Khu vực kinh tế quốc doanh, mặc dù được đầu tư nhiều nhưng làm ăn kém hiệu quả. Khu vực kinh tế tập thể cũng ở trong tình trạng như vậy. Ở miền Bắc, quy mô của các HTX nông nghiệp càng lớn thì hiệu quả càng thấp. Ở miền Nam, các HTX, tập đoàn sản xuất được thành lập một cách ồ ạt nhưng cũng vì không có hiệu quả nên nông dân không hưởng ứng. Cuối năm 1980, ngay sau khi được đánh giá là đã hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp thì hàng loạt HTX và tập đoàn sản xuất tan rã, toàn miền chỉ còn lại 3.732 tập đoàn sản xuất và 173 HTX quy mô vừa.
Với kế hoạch 1976 - 1980, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân được tăng cường so với trước, nhưng tốc độ tăng không tương xứng với mức đầu tư xây dựng cơ bản. Trong 5 năm 1976 - 1980, giá trị tài sản cố định tăng chỉ bằng 46,8 % tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản. Mặt khác, hiệu quả kinh tế của hệ thống cơ sở vật chất lại thấp. Nhiều công trình đã xây dựng xong nhưng chỉ huy động được trên dưới 50 % công suất. Giá trị tài sản cố định tăng, trang bị tài sản cho một lao động tăng nhưng năng suất lao động xã hội tính bằng thu nhập quốc dân theo giá so sánh lại giảm. 
Vì vậy trong những năm đầu, nền kinh tế còn đạt được tốc độ tăng trưởng, nhưng từ năm 1979, tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân đều giảm. Tính chung lại, trong kế hoạch 1976 - 1980, bình quân một năm tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng 1,4 %, thu nhập quốc dân tăng 0,4 %. Trong khi đó dân số tăng với tốc độ bình quân 2,24 %. Năm 1980, kết thúc kế hoạch 5 năm nhưng tất cả 15 chỉ tiêu chủ yếu đều không đạt kế hoạch, thậm chí một số sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp quan trọng bình quân đầu người không giữ được mức của năm 1976. 
Tình hình sản xuất như vậy cộng với những sai lầm trong lưu thông phân phối, thị trường tài chính, tiền tệ không ổn định nên lạm phát diễn ra nghiêm trọng. Đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. 
 Nguyên nhân của tình trạng trên bao gồm cả những yếu tố khách quan và chủ quan. 
Về khách quan : Chúng ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ là  chủ yếu, lại bị 30 năm chiến tranh tàn phá và chịu nhiều hậu quả của chủ nghĩa  thực dân cũ và mới. Năm 1979, chiến tranh Ở biên giới phía tây nam và phía bắc  làm cho bức tranh kinh tế càng xấu hơn. Thiên tai vào những năm 1977, 1978  cũng góp phần làm cho sản xuất nông nghiệp giảm sút .v.v... 
Về chủ quan: Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc đánh giá tình hình, xác  định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo XHCN. Do  chủ quan nóng vội mà chúng ta đã đề ra những mục tiêu quá lớn và bỏ qua  những bước đi cần thiết. 
 2. Thực hiện kế hoạch 5 năm 1981 1985. Một vài đổi mới cục bộ.
 Kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 thực hiện không mấy thành công đã làm cho  Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thấy phải có sự điều chỉnh nhất định trong đường lối chính sách kinh tế của mình. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 (khóa IV), tháng 8-1979 chính là sự khởi đầu của quá trình điều chỉnh, đặt cơ sở cho quá trình đổi mới căn bản sau này. Hội nghị chủ trương phải sửa chữa các khuyết điểm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, nhất là phải đổi mới công tác kế hoạch hóa và cải tiến một cách cơ bản chính sách kinh tế làm cho sản xuất “bung ra” theo phương hướng kế hoạch của Nhà nước. Từ đó dẫn đến những đổi mới cục bộ trong kế hoạch 5 năm 1981-1985.
Tháng 3-1982, Đảng cộng sản Việt Nam họp Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V. Trong khi khẳng định Việt Nam tiếp tục thực hiện đường lối chung và xác định từng chặng đường đi cho cách mạng Việt Nam. Trong đó, chặng đường trước mắt bao gồm những năm của thập mến 80 với nhau mục tiêu kinh tế - xã hội tổng quát.
1. Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định, tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân
2. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đồng thời tăng thêm trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế khác và chuẩn bị cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo. 
3. Hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN ở miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN ở miển Bắc, củng cố quan hệ sản xuất XHCN trong cả nước.
4. Đáp ứng các nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh trật tự.
Theo tinh thần đó và rút kinh nghiệm trong việc xây dựng kế hoạch 5 năm 1976-1980, Đảng và nhà nước nhấn mạnh đến tính khả thi trong việc đề ra các mục tiêu của kế hoạch này. Vì vậy, trong kế hoạch 5 năm 1981- 1985, tuy vẫn đề ra nhiệm vụ tiếp tục củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN nhưng thận trọng hơn và và việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật không triển khai đồng loạt trước như trong kế hoạch 5 năm 1976-1980 mà tiến hành một cách có trọng điểm. Số chỉ tiêu kinh tế xã hội chủ yếu định ra trong kế hoạch này so với kế hoạch trước vừa ít về số lượng, vừa thấp về mức phấn trong một số chỉ tiêu.
* Thực hiện kế hoạch năm năm, cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH tiếp tục được xây dựng
Công tác đầu tư xây dựng cơ bản trong 2 kế hoạch 5 năm liền đưa lại kết quả là nhiều công trình công nghiệp tương đối lớn đã được xây dựng như nhà máy nhiệt điện Phả Lại, thủy điện Hòa Bình, Trị An, khu vực dầu khí Vũng Tàu, các nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, Hà Tiên, nhà máy phân lân Lâm Thao, nhà máy sợi Hà Nội, Vinh, Huế, Nha Trang; nhà máy đường Sơn Lam, La Ngà; các nhà máy giấy Bãi Bằng, Tân Mai… nhờ vậy mà năng lực một số ngành sản xuất tăng lên.
Về cải tạo quan hệ sản xuất XHCN, công cuộc cải tạo sản xuất XHCN trong công nghiệp tiếp tục được tiến hành mềm dẻo hơn, không nóng vội như những năm 1976-1980. Ở miền Bắc, trong kế hoạch 5 năm trước, một số HTX nông nghiệp được tổ chức lại theo hướng trở lại quy mô nhỏ trước đó. Ở miền Nam, tư tưởng nóng vội dẫn đến ồ ạt, dùng mệnh lệnh ép buộc nông dân vào HTX như trước đây đã bị phê phán. Nguyên tắc tự nguyện cùng có lợi và quản lý dân chủ được chú ý. Những nơi chưa tiến hành tổ chức HTX đã cố gắng tìm ra những hình thức, bước đi thích hợp như vận động nông dân vào các tổ đoàn kết, tập đoàn sản xuất rồi sau đó mới thành lập HTX.
* Kế hoạch 5 năm 1981-1985 đã tiến hành một số đổi mới cục bộ trong quản lý ở một vài ngành kinh tế
Trong nông nghiệp, để khắc phục tình trạng khủng hoảng về mô hình mô hình tổ chức sản xuất, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư Trung ương đã ban hành chỉ thị 100 CT/CP, chính thức quyết định chủ trương thực hiện chế độ khoán sản phẫm cuối cùng đến nhóm và người lao động (thường gọi là khoán 100). Chỉ thị Ban Bí thư đáp ứng nguyện vọng của nông dân nên nông dân các nơi nhiệt liệt hưởng ứng. Tư tưởng chỉ đạo của Đảng nhanh chóng đi vào thực tiễn.
Hình thức khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động đã khắc phục được những hạn chế của các hình thức khoán trong HTX nông nghiệp trước đây, gắn được lợi ích của người lao động với sản phẩm cuối cùng. Người nông dân rất quan tâm đến năng suất, sản lượng. Do đó, họ đã tích cực đầu tư công sức, vật tư để phát triển sản xuất, sản lượng lương thực trong cả nước vì thế mà tăng lên. Năm 1980, sản lượng lương thực là 14,4 triệu tấn, năm 1985 với kết quả đó, khoán 100 được coi là bước đột phá đầu tiên trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp. Trong công nghiệp, ngày 21 - 1 - 1981, Chính phủ đã ban hành Nghị định 25- CP Về một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Đây là bước khởi đầu giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận với cơ chế thị trường thông qua việc thực hiện các kế hoạch ngoài kế hoạch pháp lệnh. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên kết quả đổi mới cơ chế quản lý trong các doanh nghiệp quốc doanh còn hạn chế. 
Về chính sách giá cả  tiền lương: Trong thời gian 1981 - 1982, Nhà nước tiến hành điều chỉnh giá. Đây là cuộc cải cách giá tương đối lớn đầu tiên Ở Việt Nam nhằm đưa hệ thống giá cũ, quá thấp, nặng tính bao cấp, tồn tại suốt mấy chục năm, tiếp cận với giá thị trường cùng thời điểm. Tháng 10-1985, Nhà nước lại tiến hành đợt tổng điều chỉnh giá đi đôi với xây dựng hệ thống lương theo giá mới, đồng thời tiến hành đổi tiền. Tuy nhiên, cải cách giá trong kế hoạch này không thành công vì nó vẫn nằm trong khuôn khổ Nhà nước quy định giá. Sau một thời gian điều chỉnh, giá thị trường tự do lại tăng vọt, chênh lệch giữa hai loại giá vẫn ngày càng lớn. Ngân sách bội chi ngày càng tăng, mức độ lạm phát ngày càng cao.Tình hình đó đã làm trầm trọng thêm tình trạng mất ổn định về kinh tế - xã hội, gây hỗn loạn trên thị trường và gây khó khăn lớn cho đời sống của nhân dân. 
Đối với những mục tiêu về xã hội, mặc dù kinh tế còn rất khó khăn nhưng Đảng và Nhà nước vẫn chủ trương thực hiện mục tiêu chăm lo đến đời sống của nhân dân về cả vật chất lẫn tinh thần. Kế hoạch 5 năm 1981 - 1985, Đảng và Nhà nước đã cố gắng tìm tòi một hướng đi mới để phát triển kinh tế, nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu nhất, tiến tới cải thiện đời sống của nhân dân. Kết quả đổi mới bước đầu trong nông nghiệp đã góp phần giải quyết nhu cầu về lương thực trong nước và cải thiện một bước đời sống của nông dân thành phần dân cư chiếm số đông trong xã hội. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế tiếp tục phát triển và có những đóng góp nhất định vào việc xây dựng nền văn hóa mới, con người mới. Một số nội dung của cải cách giáo dục đã được thực hiện. Nhiều loại hình trường lớp được mở ra. Hệ thống dạy nghề chính quy đã được hình thành. Nội dung giảng dạy, học tập có một số điểm sửa đổi. Các trường đều đẩy mạnh lao động sản xuất, gắn nhiệm vụ giáo dục với các chương trình kinh tế - xã hội của cả nước và của từng địa phương.
 Sau chiến thắng biên giới phía tây nam và phía bắc, Đảng và Nhà nước tiếp tục chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng và an ninh, thi hành chính sách hậu phương quân đội. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, an ninh chính trị giành thêm những thắng lợi mới. Chúng ta đã tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng phản động Fulro ở vùng Tây Nguyên, bắt gọn nhiều nhóm phản động, gián điệp, thám báo và làm phá sản âm mưu phá hoại của chúng. 
Như vậy, so với kế hoạch 5 năm trước thì kế hoạch 5 năm 1981- 1985 có một số điểm mới đáng ghi nhận. Chúng ta đã tiến hành một bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư và nhịp độ phát triển đi đôi với một số thay đổi cục bộ trong cơ chế quản lý kinh tế. Nền kinh tế có bước tăng trưởng khá hơn. Tổng sản phẩm xã hội bình quân tăng 7,3%/năm, thu nhập quốc dân tăng 6,4%. Mặc dù vậy, nền kinh tế trong những năm 1981-1985 về cơ bản vẫn vận hành theo cơ chế quản lý cũ. Đổi mới cục bộ đã làm bộc lộ rõ hơn những yếu kém của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nhưng chưa đủ sức phá vỡ cơ chế đó, càng không đủ khả năng tạo ra một cơ chế mới. Do đó, chưa tạo ra động lực thúc. đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Kết thúc kế hoạch, nhiều chỉ tiêu cũng không đạt được mức đề ra ban đầu. 
Sau hai kế hoạch 5 năm xây dựng và phát triển kinh tế theo mô hình cũ, nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng: 
Quan hệ sản xuất chưa phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 
Kinh tế tăng trưởng thấp, nếu tính chung từ năm 1976 đến năm 1985, tổng sản phẩm xã hội tăng 50,5%, bình quân mỗi năm tăng 4,6 %. Thu nhập quốc dân tăng 38,8 %, bình quân tăng 3,7%/năm. 
Sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Toàn bộ quỹ tích lũy ( tuy rất nhỏ bé) và một phần tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài. 
Hàng năm, Nhà nước không những phải nhập các mặt hàng quan trọng cho sản xuất mà còn phải nhập hàng tiêu dùng, kể cả những loại hàng hóa lẽ ra sản xuất trong nước có thể đáp ứng được như gạo và vải mặc. Từ 1976 đến 1985 Nhà nước đã nhập 60 triệu mét vải các loại và gần 1,5 triệu tấn lương thực quy gạo. 
Lạm phát diễn ra ở mức trầm trọng. Trong kế hoạch 1976 - 1980, lạm phát đã gây tác động xấu đến đời sống kinh tế- xã hội. Chính phủ đã có nhiều biện pháp kiềm chế tốc độ lạm phát nhưng không có hiệu quả. Năm 1985, cải cách giá, lương tiền không thành công đã làm cho tốc độ lạm phát tăng vọt.

Thứ Tư, 16 tháng 5, 2012


Sức mạnh hoà bình của Liên Xô (23-5-1956)

Đã 10 năm nay các nước đế quốc do Mỹ cầm đầu thi hành “chiến tranh lạnh” và chạy đua binh bị. Do đó, nhân dân các nước ấy ngày càng khổ vì thuế nặng sưu cao, đóng góp cho ngân sách quân sự. Thí dụ: Năm nay, tổng ngân sách của Mỹ là 62.400 triệu đôla, mà tiêu vào binh bị là 35.500 triệu, của Pháp là 3.175 nghìn triệu phrăng, mà tiêu vào binh bị là 948 nghìn triệu.
Mấy năm gần đây, Liên hợp quốc (27) thường bàn việc giảm bớt binh bị, nhưng không đi đến đâu, vì các nước đế quốc, nhất là Mỹ, không muốn giảm bớt binh bị. Chúng lại tuyên truyền xuyên tạc. Khi thì chúng đổ cho Liên Xô không muốn. Khi thì chúng nói: Vì tình hình thế giới chưa dịu hẳn, cho nên chúng phải đề phòng.
Để tỏ ý chí kiên quyết ủng hộ hoà bình, năm ngoái Liên Xô đã giảm bớt 64 vạn binh sĩ. Hôm 14-5-1956, Liên Xô lại quyết định giảm bớt:
63 sư đoàn lục quân,
3 sư đoàn không quân,
375 chiếc tàu chiến, cộng 120 vạn binh sĩ. Liên Xô lại thách: Nếu Mỹ, Anh, Pháp cũng giảm bớt đúng mức quân đội của họ, thì Liên Xô sẽ tiếp tục giảm nữa.
Bà con ta thử tính xem: Phục viên 184 vạn chiến sĩ và tiết kiệm số tiền rất to để trang bị cho họ (nếu họ ở lại bộ đội), đưa sức người và sức của ấy thêm vào việc tăng gia sản xuất, thì kinh tế sẽ phát triển mạnh đến mức nào?
Quyết định của Liên Xô có ảnh hưởng cực kỳ lớn. Nó được nhân dân thế giới nhiệt liệt ủng hộ, vì nó hợp với nguyện vọng hoà bình của họ. Nhân dân Mỹ, Anh, Pháp sẽ hỏi chính phủ họ: “Trước kia các người nói vì sợ Liên Xô đe doạ, mà phải tăng cường binh bị. Nay Liên Xô không đe doạ nữa, thì nước mình cũng phải giảm bớt binh bị để giảm những gánh nặng đóng góp cho dân chứ?”.
Ảnh hưởng đầu tiên là những người như Bộ trưởng Tài chính Anh đã nói: “Nước Anh không thể chịu đựng mãi gánh nặng binh bị”. Các báo tư sản Anh thì đòi Chính phủ Anh làm theo Liên Xô (17-5).
Cụt lý lẽ, bọn ngoan cố Mỹ nói quẩn nói quanh: “Liên Xô giảm bớt quân đội, là để tuyên truyền”. Vả chăng, chiến tranh nguyên tử, không cần nhiều bộ đội.
Nếu vậy thì sao Mỹ không giảm bớt bộ đội để tuyên truyền? Mỹ thường khoe khoang vũ khí nguyên tử Mỹ mạnh nhất, thì sao Mỹ không giảm bớt quân đội?
Nói tóm lại, đế quốc Mỹ rất lúng túng trước chính sách hoà bình và hành động cao thượng của Liên Xô.
C.B.
————————————
Báo Nhân dân, số 810, ngày 23-5-1956.
(27) Liên hợp quốc: Là một tổ chức quốc tế được thành lập tại Hội nghị họp ở Xan Phranxixcô (Mỹ), từ ngày 24-4 đến ngày 26-6-1945. Đại diện của 51 nước đã ký tham gia Hiến chương Liên hợp quốc. Hiến chương bắt đầu có hiệu lực từ ngày 24-10-1945. Vì vậy ngày 24-10 hàng nǎm được gọi là Ngày Liên hợp quốc.
Hiến chương Liên hợp quốc nêu rõ: Mục đích thành lập tổ chức quốc tế này là để ngǎn ngừa và loại trừ những mối đe doạ đối với hoà bình, phát triển quan hệ thân thiện giữa các dân tộc và thực hiện sự hợp tác giữa các nước để giải quyết những vấn đề quốc tế; tôn trọng các quyền tự do cǎn bản của con người, không phân biệt chủng tộc, nam, nữ, tín ngưỡng và tiếng nói. Tất cả các nước hội viên đều bình đẳng, không một nước nào có quyền can thiệp vào các công việc nội bộ của nước khác.
Những cơ quan chủ yếu của Liên hợp quốc là Đại hội đồng, Hội đồng bảo an, Uỷ ban kinh tế và xã hội, Toà án quốc tế và Ban thư ký. Trụ sở Liên hợp quốc đặt tại Niu óoc (Mỹ).
Nǎm 1977, Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc. Tính đến cuối nǎm 1994, tổ chức này có 185 nước thành viên.
Tr. 169.

Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ làm công tác sửa sai trong cải cách ruộng đất ở ngoại thành Hà Nội (29-5-1956)

Tôi thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ khen ngợi cán bộ và nhân dân các xã ngoại thành Hà Nội đã làm công tác bước hai đạt kết quả khá. Vừa làm tốt việc sửa sai, ngoại thành Hà Nội cần đẩy mạnh thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm, ra sức củng cố các tổ chức đổi công, kiện toàn các tổ chức quần chúng và thi đua làm nghĩa vụ lương thực cho Nhà nước.
Để làm tốt những nhiệm vụ trên, các cán bộ sửa sai phải gương mẫu, tránh bao biện làm thay, cán bộ địa phương thì phải cố gắng học tập, không nên ỷ lại vào cán bộ sửa sai.
—————————————-
Nói ngày 29-5-1956.
Sách Bác Hồ với nhân dân Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1980, tr. 58.
cpv.org.vn

Nói chuyện tại Đại hội chiến sĩ thi đua ngành thương nghiệp lần thứ nhất (5-1956)

Đại hội này gồm có chiến sĩ miền Nam, miền Bắc, có bộ đội chuyển ngành, có cán bộ dân tộc thiểu số, có Hoa kiều, có cán bộ trong Đảng, ngoài Đảng, thuộc tất cả các ngành trong Bộ, như thế là rất tốt. Đó là tượng trưng cho khối đoàn kết.
Trong số chiến sĩ gần một nửa là cán bộ miền Nam tập kết, điều đó chứng tỏ anh em miền Nam rất cố gắng công tác để củng cố miền Bắc vững mạnh làm cơ sở đấu tranh thống nhất nước nhà; như vậy là rất đáng khen. Nhưng chỉ có 11 phụ nữ thì ít quá. Cán bộ phụ nữ cần cố gắng hơn nữa; đoàn thể phụ nữ, cơ quan phụ trách cần chú ý dìu dắt, giúp đỡ hơn nữa để nhiều chị em có thể thay cho nam giới trong công việc buôn bán.
Nói chung, các chiến sĩ và lao động xuất sắc đã có tinh thần chịu khó, chịu khổ, khắc phục khó khǎn để phục vụ nhân dân. Thí dụ: đồng chí Nguyễn Tấn Anh đã biết gần gũi nhân dân, giúp đỡ nhân dân, cải thiện sinh hoạt, khắc phục khó khǎn làm tròn nhiệm vụ. Đồng chí Ngô Đình Tân đã chú ý cải tiến kỹ thuật, bán được nhiều hàng, khách tới mua cũng vui lòng. Đồng chí Nguyễn Vǎn Lộc đã hết lòng bảo vệ của công. Đồng chí Nguyễn Sanh biết giữ vững lập trường không để gian thương mua chuộc… Tóm lại, các chiến sĩ và lao động xuất sắc đều nêu cao tinh thần trách nhiệm; kiên quyết khắc phục khó khǎn, gần gũi quần chúng, thực hành tiết kiệm. Những ưu điểm đó cần đem phổ biến rộng rãi.
Nhưng khuyết điểm cũng còn nhiều, như: giữ kho để gạo bị ẩm, mục, đem bán không ai mua, bỏ đi thì tiếc phải đem cho cán bộ, bộ đội ǎn đỡ, như thế là không tốt. Trong kháng chiến, anh chị em đã phải ǎn gạo xấu; trong hoà bình, phải lo bảo đảm sức khoẻ cho anh chị em để khỏi ảnh hưởng đến công tác. Thu mua nông lâm thổ sản thì mua cả những thứ không bán được đâm ra lỗ vốn. Tiền vốn là của chung mà làm thua lỗ thì có đau xót không? Lãng phí cũng không ít, có chỗ còn tham ô. Những sai lầm đó phải ra sức khắc phục.
Có anh chị em chưa yên tâm công tác cho là làm việc này không vẻ vang, muốn xin đổi việc khác. Ví như một cái cây trồng chỗ này một thời gian, lại nhổ đi trồng chỗ khác thì cây không thể mọc tốt được. Cán bộ cũng vậy, đứng núi này trông núi nọ thì làm việc gì cũng không đạt được kết quả. Phải nhớ rằng lao động, bất cứ lao động gì mà có ích lợi cho nhân dân, cho xã hội đều là vinh quang. Ví dụ: anh chị em công tác vệ sinh thật là khó nhọc, lại chịu thối tha bẩn thỉu. Nếu không có những người làm công việc đó thì đời sống mọi người sẽ thế nào? Những anh chị em đó, cũng có người đã trở thành chiến sĩ, như thế là vẻ vang. Không phải làm chức này, chức nọ mới là vẻ vang; xã hội có nhiều công việc, ai làm tròn nhiệm vụ đều là vẻ vang. Dưới chế độ ta cán bộ từ trên xuống dưới đều là đày tớ của nhân dân. Nhân dân giao cho nhiệm vụ gì thì phải làm cho tốt.
Có người chỉ lo đến tiền đồ cá nhân. Như thế là chưa hiểu “tiền đồ của mỗi người nằm trong tiền đồ của cách mạng, của dân tộc”. Trước cách mạng dù làm gì cũng đều là nô lệ của thực dân. Bây giờ ta đã đánh bẹp thực dân rồi thì bất kỳ làm việc gì, ở đâu ta cũng không phải là nô lệ nữa. Muốn tiền đồ của mình được vẻ vang thì phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ, xây dựng tiền đồ của Tổ quốc. Ví dụ như một người đang đi trên một chiếc tàu hoả, xe đang chạy nhưng người đó muốn nhanh hơn nên nhảy ra ngoài. Như thế thì sẽ ra sao? Cho nên muốn tách tiền đồ cá nhân ra khỏi tiền đồ chung là không được.
Về cán bộ lãnh đạo thì khuyết điểm chính là xa quần chúng, xa thực tế. Như thế là quan liêu mà quan liêu thì dễ mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm. Ta cần kiên quyết chống bệnh quan liêu.
Các chiến sĩ thì còn khuyết điểm là thi đua chưa được thường xuyên, thiếu liên tục. Có kinh nghiệm, sáng kiến cũng không chú ý phổ biến. Cán bộ lãnh đạo lại không theo dõi, bồi dưỡng. Có khi lại máy móc kéo chiến sĩ đi hết hội nghị này đến hội nghị khác; chiến sĩ mà cứ đi báo cáo, xa rời công tác là hết chiến sĩ. Không khéo lãnh đạo phong trào, bồi dưỡng chiến sĩ làm đầu tàu là khuyết điểm; và lãnh đạo cần phải chú ý sửa chữa.
Về nhiệm vụ thì phải hiểu rõ trong nền kinh tế quốc dân có ba mặt quan trọng: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt công tác quan hệ mật thiết với nhau. Thương nghiệp là cái khâu giữa nông nghiệp và công nghiệp. Thương nghiệp đưa hàng đến nông thôn phục vụ nông dân, thương nghiệp lại đưa nông sản, nguyên liệu cho thành thị tiêu dùng. Nếu khâu thương nghiệp bị đứt thì không liên kết được nông nghiệp với công nghiệp, không củng cố được công nông liên minh. Công tác thương nghiệp không chạy thì hoạt động nông nghiệp, công nghiệp sẽ bị rời rạc. Các chiến sĩ phải cố gắng làm gương mẫu và giúp đỡ anh chị em khác cùng tiến bộ. Trong ngành thương nghiệp có tới mấy vạn anh chị em cán bộ, công nhân viên, mà chỉ mới có hơn 300 chiến sĩ. Thế là ít. Nguyên nhân một phần do lãnh đạo, một phần là mọi người chưa thực giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Toàn thể cán bộ trong ngành phải có ý thức lao động là vẻ vang, rèn luyện tinh thần khắc phục khó khǎn, chịu đựng gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và Chính phủ giao cho. Phải tích cực chống lãng phí, tham ô, vì những sai lầm đó có hại cho Nhà
nước, cho nhân dân và có hại trực tiếp cho cán bộ, nhân viên; phải thực hành tiết kiệm; quản lý tốt của công; quản lý chặt chẽ thị trường; chống đầu cơ tích trữ, bình ổn vật giá phục vụ nhân dân.
Cần phải tǎng cường đoàn kết nội bộ và đoàn kết với nhân dân để làm tròn nhiệm vụ. Trong ngành có nhiều loại cán bộ, phải đoàn kết cho chặt chẽ; nếu chỉ đoàn kết nội bộ mà không đoàn kết với nhân dân thì không làm được việc. Cách mạng thắng lợi, kháng chiến thắng lợi là vì đoàn kết. Vì vậy, khối đoàn kết phải được củng cố và tǎng cường để tiếp tục đấu tranh thắng lợi.
——————————
Tạp chí Sinh hoạt thương nghiệp, số đặc biệt, nǎm 1956, tr. 15-16.
cpv.org.vn

1-6 (1-6-1956)

Hôm nay là ngày tết quốc tế của các em nhi đồng. Các trường học, các cơ quan và đoàn thể đều giúp các em nhi đồng tổ chức những cuộc chơi vui thú vị và có ích.
1-6 lại nhắc nhở chúng ta rằng: Cha mẹ, thầy giáo và cô giáo, cùng các đoàn thể thanh niên là những người trực tiếp phụ trách giáo dục nhi đồng. Mà chúng ta, tất cả những người lớn đều có nhiệm vụ góp phần vào việc bồi dưỡng tốt thế hệ tương lai của dân tộc.
Chúng ta lo cải cách ruộng đất cho tốt. Chúng ta thi đua khôi phục kinh tế, phát triển vǎn hoá. Chúng ta ra sức củng cố miền Bắc, chiếu cố miền Nam. Chúng ta quyết tâm đấu tranh để xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Chúng ta hy sinh phấn đấu, đều nhằm mục đích xây dựng đời sống hạnh phúc cho nhi đồng ta.
Trong công tác và trong sinh hoạt, chúng ta đều cố gắng làm gương mẫu. Sự phối hợp giáo dục từ gia đình đến cả xã hội, sẽ làm cho nhi đồng thấm nhuần. Nó hun đúc cho nhi đồng tinh thần nồng nàn yêu Tổ quốc, yêu lao động, yêu học hỏi. Như vậy các em sẽ trở nên mạnh khoẻ, nhanh nhẹn, gan dạ, thật thà. Mai sau lớn lên, chắc chắn các em sẽ là những công dân tốt và những cán bộ tốt.
Nhân dịp này, báo Nhân dân chúc các em nhi đồng Việt Nam và nhi đồng các nước một ngày tết rất vui vẻ.
C.B.
———————————-
Báo Nhân dân, số 819, ngày 1-6-1956.
cpv.org.vn

Điện chúc mừng sinh nhật Tổng thống nước Cộng hoà Nam Dương (7-6-1956)

Kính gửi Ông Ahômét Xucácnô,
Tổng thống nước Cộng hoà Nam Dương,
Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 55 của Tổng thống, tôi kính gửi Ngài lời chào mừng nhiệt liệt và kính chúc Ngài luôn luôn mạnh khoẻ.
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
HỒ CHÍ MINH
——————–
Báo Nhân dân, số 825, ngày 7-6-1956.
cpv.org.vn

Vì sao đế quốc Mỹ thích chiến tranh, sợ hoà bình? (7-6-1956)

Trong hai cuộc chiến tranh thế giới, quân đội Mỹ bị thiệt hại rất ít. Đất nước Mỹ không hề bị một viên đạn, một quả bom. Mỹ lại bán vũ khí cho các nước mà đại phát tài.
Dưới đầu đề “Súng đại bác”, tờ tuần báo Mỹ Nation 1 đã đǎng một loạt bài, trả lời câu hỏi trên. Sau đây là tóm tắt mấy điểm chính:
Binh bị là một nguồn gốc làm giàu cho các công ty độc quyền.
So với trước Chiến tranh thế giới lần thứ hai, thì ngày nay số quân đội Mỹ tǎng gấp 10, ngân sách quân sự tǎng gấp 20.
Tài sản của Bộ Chiến tranh là 140 nghìn triệu đôla. Tài sản của Bộ Không quân nhiều hơn tài sản của 5 công ty to nhất ở Mỹ cộng lại.
Các công ty to thầu các thứ trang bị, được lãi rất nhiều. Trong 5 nǎm qua, (không kể số tiền khổng lồ họ thu được do việc bán vũ khí cho các nước), họ lãi hơn 30.500 triệu đôla. Viên Bộ trưởng Quốc phòng hiện nay cũng là chủ một công ty to thầu hàng quân sự.
Để xoay các khoản thầu, gần 2.000 đại biểu các công ty vào làm việc trong các cơ quan chính phủ với một số lương tượng trưng là mỗi nǎm một đôla. Các công ty thì trả lương cho họ mỗi tháng hàng vạn đôla.
Mặt khác, các tướng lĩnh về hưu, đều được các công ty mời làm chủ tịch hoặc phó chủ tịch. Hơn 40 viên cựu đô đốc và đại tướng đang làm việc ở các công ty với những lương bổng kếch sù, có khi hơn 10 vạn đôla một tháng. Chỉ nǎm ngoái hơn 2.000 sĩ quan cao cấp đã từ chức quân đội để về làm cho các công ty. Các công ty to thích dùng các tướng tá cũ, vì những người này có ảnh hưởng lớn đối với các tướng tá mới. Và các tướng tá mới thì đều hiểu rằng: nếu mong mai sau có một chỗ làm với số lương khá, thì ngay từ bây giờ họ phải “hẩu” với các công ty to.
Các công ty thầu và các tướng lĩnh đều vào một phe, cho nên có những vụ tham ô lãng phí rất kỳ khôi. Thí dụ: Có thứ trang bị chất ở kho nhiều đến nỗi dùng trong 128 nǎm còn chưa hết. Trong một cái kho của hải quân, người ta thấy có 11 triệu cái nĩa ǎn hàu.
Báo Nation kết luận: Có tuyên truyền chiến tranh, có chạy đua binh bị thì bọn tài phiệt và quân phiệt mới có thể làm giàu. Vì vậy chúng thích chiến tranh và chúng sợ hoà bình.
C.B.
——————————–
Báo Nhân dân, số 825, ngày 7-6-1956.

Thư gửi đồng bào, bộ đội và cán bộ các tỉnh có đê (9-6-1956)

Gửi đồng bào, bộ đội và cán bộ các tỉnh có đê,
Năm nay mưa nhiều và sớm, thời tiết biến chuyển thất thường, chúng ta phải phòng lụt lớn.
Nhưng dù nước to đến đâu, chúng ta cũng quyết giữ đê cho vững, không để nạn lụt xảy ra. Giữ đê phòng lụt là công việc cực kỳ quan trọng đến dân sinh.
Trong việc giữ đê, tổ chức phải chặt chẽ, chỉ huy phải vững vàng, dụng cụ phải đầy đủ. Các đoàn thể Nông hội và Thanh niên phải xung phong, các đơn vị bộ đội phải tranh thủ thời gian giúp sức đồng bào. Chúng ta phải tỉnh táo đề phòng địch phá hoại.
Với sự đoàn kết và cố gắng của mọi người, với kinh nghiệm các năm trước, chúng ta nhất định giữ đê tốt và thắng giặc lụt.
Cán bộ cần phải thông suốt, phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, phải có kế hoạch cụ thể, phải đi sát với quần chúng, phải kết hợp công việc giữ đê phòng lụt với các công tác chính như cải cách ruộng đất, chống úng thuỷ, làm mùa …
Chính phủ rất mong nhân dân, bộ đội và cán bộ làm trọn nhiệm vụ và sẽ khen thưởng những đơn vị và cá nhân có nhiều thành tích xuất sắc.
Ngày 9 tháng 6 năm 1956
HỒ CHÍ MINH
—————————–
Báo Nhân dân, số 828, ngày 10-6-1956.
cpv.org.vn

Một tin tức lạ (9-6-1956)

Tin tức các báo (23-5): “Mỹ muốn giúp nước Libăng 17 triệu đôla, nhưng Libăng từ chối, không nhận”. Có lẽ bà con ta lấy làm lạ, vì sao người ta mời lấy tiền, mà Libăng lại từ chối ? Xin xem câu chuyện dưới đây, thì bà con sẽ rõ:
“Liên Xô đã giúp:
300 triệu đôla cho Nam Tư để phát triển thêm kinh tế,
100 triệu đôla cho ápganixtan để xây dựng lại đê điều thuỷ lợi,
150 triệu đôla cho ấn Độ để lập xưởng đúc gang, mỗi năm sản xuất 1 triệu tấn,
500 triệu đôla cho Ba Lan,
125 triệu đôla cho nước Đức dân chủ,
250 triệu đôla cho Triều Tiên dân chủ,
1.400 triệu đôla cho Trung Quốc để thêm vốn vào kế hoạch 5 năm.
Liên Xô giúp các nước đủ sức để sản xuất mỗi năm 9 triệu tấn gang, 4 triệu tấn dầu lửa, 5 triệu rưởi kilôoát điện …
Liên Xô lại giúp các nước dân chủ Đông Âu 1.500 kỹ sư và giúp các nước ấy đào tạo thêm 2.300 kỹ sư và chuyên gia.
Liên Xô có thể giúp các nước nhiều như vậy, là vì kinh tế của Liên Xô phát triển rất nhanh; công nghiệp nặng của Liên Xô năm nào cũng sản xuất vượt mức kế hoạch đã định. Nhất là Liên Xô sản xuất mau chóng đủ các thứ máy móc, đào tạo ra nhiều kỹ sư và chuyên gia”.
Đó là báo cáo của Đalét trước Quốc hội Mỹ hồi đầu tháng 5. Đalét nói thật, đó cũng là một tin tức lạ.
Từ 1950 đến nay, Mỹ đã “giúp” các nước phe Mỹ 25.000 triệu đôla, trong số đó hơn 13.000 triệu là vũ khí. Vả lại, như tờ báo tư sản Mỹ Tin tức (14-4) đã viết:
“Các nước châu á không ưa “viện trợ” của Mỹ, vì nó kèm theo nhiều điều kiện nặng nề … Bởi vì Mỹ cốt bán chạy các hàng hoá ế đọng của Mỹ, chứ không giúp đỡ thật sự cho các nước ấy … Sự giúp đỡ của Liên Xô thì hợp với nhu cầu của các nước được giúp …, làm cho các nước mới được độc lập thoát khỏi ách kinh tế của phương Tây …”.
Hôm 2-4, Hội các chủ nhà máy Mỹ đã tuyên bố rõ ràng: “Mỹ không nên giúp cho các nước xây dựng công nghiệp, vì e họ sẽ cạnh tranh với công nghiệp Mỹ”.
Hôm 11-4, một đại biểu Quốc hội Phi Luật Tân nói: “Viện trợ của Mỹ kèm theo những điều kiện tàn nhẫn hơn là xiềng xích
sắt …”.
Cũng vì lẽ đó, mà Thủ tướng Pháp đã nói: “Mỹ càng giúp đỡ, thì thiên hạ càng oán ghét Mỹ”.
Và Thủ tướng nước Xâylan nói: “Đôla Mỹ không thể mua chuộc lòng tự tôn của nhân dân ta…”.
Vậy, người Mỹ có câu rằng:
Có tiền mà cậy chi tiền,
Mất tiền, mà lại vô duyên lạ đời!
C.B.
———————————–
Báo Nhân dân, số 827, ngày 9-6-1956.
cpv.org.vn

Bài nói chuyện tại lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp I (12-6-1956)

Trên 350 học viên mà chỉ có 20 phụ nữ thì ít quá. Giáo dục phải cố gắng để phụ nữ nhiều hơn nữa. Trừ cải cách ruộng đất cán bộ phụ nữ được đào tạo nhiều; trong giáo dục, y tế, các ngành khác, số phụ nữ đều thấp. Nam nữ như thế đã bình đẳng chưa? Các cô phải cố gắng.
Về giáo dục, chế độ khác thì giáo dục cũng phải khác. Thời trước giáo dục là gõ đầu trẻ để kiếm cơm ǎn. Có cơm chùa thì đánh chuông, hết cơm chùa thì không đánh chuông. Bây giờ nhiệm vụ giáo dục khác trước. Các cô các chú có nhiệm vụ rất quan trọng: bồi dưỡng thế hệ công dân, cán bộ sau này. Làm tốt thì thế hệ sau này có ảnh hưởng tốt. Làm không tốt sẽ có ảnh hưởng không tốt đến thế hệ sau. Mục đích giáo dục bây giờ là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp người, lớp cán bộ mới.
Về Hà Nội tưởng là sung sướng. Địa điểm vẫn còn là một cái đình. Lương ít, công việc nhiều. Khổ là khổ chung. Khổ ấy là khổ gần một thế kỷ mất nước, nô lệ để lại. Sau này kinh tế khá thì đời sống vật chất cũng khá hơn. Sang nǎm thì chưa được, nhưng vài nǎm sau các cô các chú về sẽ thấy khác.
Kháng chiến thắng lợi, dân tộc giải phóng; giáo dục được giải phóng thì giáo dục bây giờ phải khác giáo dục phong kiến. Hồi Đông Kinh nghĩa thục có nói đến hai chữ yêu nước. Lúc đầu nó để cho nói. Sau nó kẹp lại. Nói hai chữ yêu nước là bị tóm cổ bắt bỏ tù. Về Phong trào truyền bá quốc ngữ trong bao nhiêu nǎm mới được 2 vạn 5 nghìn người đi học. Bây giờ chỉ trong một nǎm sau hoà bình ở Hà Nội đã có trên 3 vạn 5 nghìn người đi học. Trước nó không cho đi học, dân ta có gan đi học. Phải thấy cái khổ là tạm thời. Tiến bộ mới là chính.
Tri thức phải dễ hiểu, dễ nhớ, học mau. Ngoài tri thức phải có đạo đức cách mạng. Thầy giáo phải làm kiểu mẫu cho các cháu. Làm được như thế là làm tròn nhiệm vụ.
Kháng chiến phải mấy nǎm. Vội không được. Giáo dục cũng phải theo hoàn cảnh, điều kiện. Phải ra sức làm nhưng làm vội không được. Từ đây ra cửa thì thứ nhất là bước thứ nhất, thứ hai mới đến bước thứ hai rồi thứ ba mới là bước thứ ba. Vội thì ngã. Làm phải có kế hoạch, có từng bước.
Tóm lại
1. Nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục. Bây giờ đang xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để dần dần đến chủ nghĩa xã hội. Kháng chiến thì cần nhiều cán bộ quân sự. Bây giờ xây dựng kinh tế. Không có cán bộ không làm được. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế vǎn hoá. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu. Tuy không có gì đột xuất, nhưng rất vẻ vang. Không có tượng đồng bia đá, không có gì là oanh liệt, nhưng làm tròn nhiệm vụ là anh hùng, anh hùng tập thể.
2. Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai.
3. Không nên vội. Kháng chiến đến 8, 9 nǎm. Hiệp thương tổng tuyển cử cũng còn phải lâu dài. Tháng 7 tổng tuyển cử, là ta mới nói, còn phải có bên kia.
Không phải dễ nhưng không phải không làm được. Có thể làm được. Quyết tâm nhất định thành công.
Bác gửi lời các cô các chú hỏi thǎm các chú ở nhà và các cháu học sinh nữa.
——————————
Nói ngày 12-6-1956.
Sách Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1956, t.III, tr.278-280.
cpv.org.vn

Bình dân học vụ (17-6-1956)

“Đoàn quân văn hoá của nhân dân, trống rung cờ mở, ào ạt tiến lên, quyết chiến quyết thắng”. Đó là câu nói hùng hồn của một nữ học sinh dạy lớp bình dân học vụ. Mà thật vậy. Tính đến tháng 5, cả miền Bắc đã có ngót 1.715.000 người đi học, từ các lớp i. t. đến các lớp bổ túc cấp 2.
Có thành tích ấy là vì nhân dân ta hiểu thấu rằng: bất kỳ làm nghề gì, nếu không biết chữ thì khó tiến bộ, cho nên nhiều người cố gắng đi học.
Từ thành thị đến thôn quê, ở các đường phố, các nhà máy, các công trường, các chợ búa… khắp nơi có lớp học. Già, trẻ, gái, trai, ai chưa biết chữ đều tìm cách vượt khó khăn để đi học. Buổi sáng, buổi trưa, buổi tối, đến đâu cũng nghe tiếng học. Thật là một phong trào sôi nổi, một cảnh tượng tưng bừng của một dân tộc quyết rời bỏ chỗ tối, bước lên chỗ sáng.
Cảm động nhất, là có những cụ tuổi đã rất cao, mà cũng xung phong đi học để khuyến khích con cháu, như bà cụ Nguyễn Thị Xuyến (100 tuổi, xã Nghi Tân, Nghệ An), cụ Lê Siêu (106 tuổi, xã Sơn Phố, Hà Tĩnh) và nhiều cụ khác.
Học sinh các trường công và tư là quân chủ lực tinh nhuệ của đội ngũ giáo viên bình dân học vụ. Nhưng cũng có nhiều cụ phụ lão (như cụ Dương 80 tuổi, cụ Mỹ 79 tuổi), các em nhi đồng, nhiều anh chị công nhân và cán bộ … cũng không ngại khó nhọc, xung phong đi dạy.
Ngoài cách dạy và cách học thông thường, lại có nhiều sáng kiến và hình thức như: dán bài vào cánh tay, viết chữ trên mẹt hàng, găm bài học vào lưng áo người đi trước để người đi sau nhìn mà học, viết chữ cắm ở những nơi đông người qua lại … Như vậy, đồng bào có thể vừa lao động, vừa học chữ. Một dân tộc siêng làm, ham học như thế, thì làm việc gì cũng thành công!
Đồng bào các giới thì đều tuỳ khả năng của mình mà ủng hộ phong trào diệt giặc dốt, như: tổ chức giữ trẻ để cho chị em có con mọn đi học được. Cho mượn nhà làm lớp học. Đóng bàn ghế không lấy tiền. Giúp dầu đèn, bút, giấy cho những học viên nghèo, v.v..
Bình dân học vụ đã trở nên một phong trào quần chúng. Tuy vậy, đó chỉ mới là bước đầu. Hiện nay còn nhiều người mù chữ chưa đi học.
Để hoàn thành nhiệm vụ thanh toán nạn mù chữ trong 3 năm (1956-1958), các cấp đảng uỷ và chính quyền, các chi bộ, các công đoàn, các tổ chức thanh niên, các cán bộ chỉ huy công trường và nhà máy… cần phải thiết thực phụ trách đẩy mạnh phong trào thanh toán nạn mù chữ một cách có kế hoạch và liên tục, bền bỉ. Các cơ quan văn hoá, giáo dục cần phải có sách và báo rất thông tục, dễ xem, dễ hiểu, cho những người đã biết đọc biết viết có thể tiếp tục học thêm.
Với sự săn sóc của Đảng và Chính phủ, với lòng hăng hái, phấn khởi của nhân dân, chúng ta nhất định tiêu diệt giặc dốt trong thời gian đã định.